Dân Việt trên
Trong rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải tiến hành nhưng hoạt động quân sự nhằm giải quyết những vấn đề xung đột chính trị mà các biện pháp ngoại giao thông thường không thể giải quyết vấn đề. Nhưng trong lịch sử đấu tranh, có rất nhiều những tình huống mà những xung đột căng thẳng giữa các nước trên thế giới có thể được giải quyết bằng phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó.
Bạn đang xem: "trung quốc dự liệu đúng về liên xô khi tấn công việt nam năm 1979"
Hơn một lần Liên bang Xô viết đã sử dụng khả năng biểu dương sức mạnh quân sự để ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một trong những tình huống đó là năm 1979, Kremlin đã có những hành động quyết liệt biểu dương sức mạnh của các lực lượng vũ trang và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạn đó để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Và chính sự quyết liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn ở khu vực Đông Nam Á.
Diễn tập bắn đạn thật – là những hoạt động huấn luyện chiến đấu của các lực lượng vũ trang các nước với mục đích làm tăng khả năng sẵn sàng chiến đấu, khả năng điều hành tác chiến và liên kết phối hợp, đồng thời cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí trang bị phương tiện chiến tranh trên chiến trường.
Nhưng trên thực tế diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức mạnh quân sự nhằm mục đích răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương thức nhằm đưa các đơn vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh.
Một trong những yếu tố nhanh chóng làm tỉnh lại những nhà chính khách đã mê muội bởi tham vọng chính trị, với sự tự tin thái quá về khả năng của mình, đó là cho họ thấy được sức mạnh quân sự mà trong trường hợp họ vẫn không tự nhìn nhận lại tình huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện. Thực hiện được điều đó thì phô diễn sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu quả.
Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân sự nhằm đạt được mục đích chính trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Nhưng trong thực tế đấu tranh trên thế giới, Liên bang Xô viết vào năm 1979 đã triển khai sức mạnh quân sự của mình một cách quyết liệt và hiệu quả, khiến cho một cường quốc trên thế giới như Trung Quốc buộc phải chùn tay, còn cả thế giới nín thở với sự khủng khiếp chờ đợi ngày “D”.
Xung đột biên giới năm 1979
Sau khi quân tình nguyện Việt Nam cùng với các lực lượng yêu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại lực lượng quân sự Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép mọi mặt lên nhà nước Việt Nam ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế, quân sự…
Trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, lực lượng thù địch đã triển khai một tập đoàn quân: Thê đội 1-15 sư đoàn bộ binh, thê đội 2-6 sư đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3 sư đoàn. Tổng thể cụm quân lực triển khai các hoạt động tác chiến trên biên giới có thể tăng cường đến 29 sư đoàn. Rạng sáng ngày 17/ 2, đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công trên toàn tuyến…
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 chính thức nổ ra…
Liên bang Xô viết quyết định thực hiện sứ mệnh vô cùng khó khăn trong điều kiện tình huống phức tạp và nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên diện rộng – thiết lập lại sự công bằng và hòa bình trên bán đảo Đông Dương bằng phương pháp biểu dương sức mạnh quân sự.
Nhưng với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng nước lớn muốn ‘dạy một bài học’ cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt hơn. Moskva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt ngay từ ban đầu.
Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới
Các hoạt động biểu dương sức mạnh và ý chí được quyết định vào đầu tháng 3/1979. Trong giai đoạn từ ngày 12 đến 26/3 (với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc do những hành động gây chiến chống lại nước láng giềng) theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên xô, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.
Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân. Quân số tham gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân nhân, 2.600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu từ thời điểm động viên lực lượng và đưa các đơn vị thường trực chiến đấu từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực lượng dự bị động viên điều động 52 nghìn quân nhân dự bị động viên hạng 1, động viên từ các cở sở thuộc ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô các loại.
Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, trong diễn tập có sự tham gia của 6 sư đoàn Bộ binh Cơ giới và Tăng thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia. Ngoài ra trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ đoàn, 3 sư đoàn không quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.
Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó, đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viễn Đông và Đông Kazakhstan, có sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.
Trong tiến trình diễn tập đã thực hiện nội dung liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân đội trong điều kiện khí hậu và môi trường khắc nghiệp đã tiến hành cơ động trên khoảng cách rộng lớn, từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2.000 km). Các đơn vị được tổ chức biên chế thành đơn vị chiến đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường không.
Cụ thể, sư đoàn đổ bộ đường không từ Tula được vận chuyển vào khu vực Chita trên quãng đường dài 5,5 nghìn km bằng máy bay vận tải quân sự một đợt bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp đường không đến các sân bay của Mông cổ.
Trên những khu vực biên giới với Trung Quốc, các đơn vị phòng thủ biên giới triển khai phác thảo các kế hoạch tổ chức phòng ngự, đánh chặn các đòn tấn công xâm phạm khu vực biên giới, kế hoạch phản kích các đòn tấn công và kế hoạch phản công.
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm, tiến hành các hoạt động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt triển khai diễn tập các hoạt động tác chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương. Riêng vùng biển Primorie tiến hành diễn tập đổ bộ đường biển.
Một trong những mối quan tâm đặc biệt là kinh nghiệm triển khai các cụm quân công kích chủ lực của Lực lượng Không quân trên biên giới với Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế vượt trội về không quân, như một phương tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là yếu tố quan trọng làm nguội đi những cái đầu nóng của người láng giềng đầy tham vọng mà không tự lượng sức mình.
Theo các kế hoạch diễn tập, đã tiến hành tổ chức biên chế các cụm chủ lực hàng không công kích của các trung đoàn không quân trên các quân khu gần biên giới Trung Quốc. Các tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang vị trí đóng quân cố định trong khu vực miền Đông, không chỉ là từ các quân khu lân cận, mà cả từ Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới 7.000km trong vòng hai ngày.
Vấn đề không phải là vài chục chiếc máy bay chiến đấu, được rút ra từ các phân đội bay sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, mà là các trung đoàn bay đầy đủ theo biên chế. Cùng với các máy bay chiến đấu, các máy bay vận tải vận chuyển luôn cả các đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết bị, kỹ thuật dự trữ và cơ sở vật chất dự phòng theo biên chế.
Có những thời điểm trên không trung cùng lúc bay hàng chục trung đoàn không quân chiến trường. Ngay sau khi các đơn vị không quân hạ cánh, các đơn vị và phân đội không quân lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai tham gia huấn luyện diễn tập. Trong quá trình tiến hành các hoạt động chuyển quân và diễn tập chiến đấu tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn 5000h, sử dụng hơn 1.000 quả bom và tên lửa.
Một khối lượng khổng lồ vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, cơ sở vật chất, vận chuyển từ Liên bang Xô viết, đã giải quyết toàn bộ vấn đề về trinh sát đường không của địch trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối lượng không thể tưởng tượng được của hàng không vận tải quân sự đã thực hiện trên cầu hàng không được thiết lập giữa CCCP và Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình diễn tập và vận chuyển khí tài chiến đấu trong không đầy một tháng đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân nhân của lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn 1.000 đơn vị (unit) trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh.
Liên bang Xô viết đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, bằng sự giúp đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường sức mạnh quân sự cho quân đội nhân dân Việt nam bằng giải pháp cung cấp khí tài quân sự. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang đến tháng 3/1979 theo đường vận tải biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang Xô viết còn cung cấp các hệ thống trang thiết bị đặc chủng và các dây truyền sửa chữa xe máy công trình phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị, phương tiện chiến tranh. Tất cả các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa, bảo hành trang thiết bị đi cùng đó đều được chuyển đến trong vòng một tháng. Vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và có thể đưa vào chiến đấu được ngay.
Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh được kiểm tra bởi các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã điều động các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để các trang thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.
Như vậy, các phương tiện chiến đấu, từ các phương tiện vận tải, không cần có sự chuẩn bị bổ sung, có thể đưa thẳng vào chiến trường. Đây thật sự là một kỳ tích của hệ thống hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội Xô viết cả về tốc độ cung cấp và vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang bị, khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí trang bị khi cơ động trên hàng chục ngàn km đường biển.
Trong thời gian diễn ra cuộc tập trận tổng lực của quân đội xô viết, người Trung Quốc căng thẳng theo dõi mọi diễn biến và có thể đánh giá được, thật sự họ đang ở trong một tình huống nghiêm trọng như thế nào? Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân đội của họ từ vị trí đóng quân ra biên giới Xô – Trung.
Ngoài biên giới, các phương tiện thông tin đại chúng tập trung toàn bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những phỏng đoán về cuộc diễn tập quân sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, diễn ra trong khu vực châu Á.
Các hoạt động diễn ra rất quyết liệt, theo đúng thực tế chiến trường chứ không hề có cảm giác “tình huống giả định, một bước tiến – hai bước lùi”. Và áp lực chiến tranh nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ phải suy nghĩ tỉnh táo và kiềm chế tối đa.
– Sự ủng hộ kiên quyết của Moskva đối với Hà Nội, yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả năng sẵn sàng tiến hành các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực phía Đông những mâu thuẫn và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà cầm quyền Bắc Kinh.
– Sự phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu chuộng hòa bình.
– Sự xuất hiện rõ nét những điểm yếu trong công tác huấn luyện và tiến hành các chiến dịch, thực hành các trận đánh của lực lượng sĩ quan chỉ huy quân đội PLA.
– Trong biên chế các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, phương tiện chiến tranh, khó khăn nghiêm trọng trong công tác vận tải cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật.
Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày 20/3 bắt đầu rút quân trên toàn bộ các hướng chủ yếu. Cuộc rút lui được che chắn bởi hỏa lực dữ dội của pháo binh và các cuộc tấn công nghi binh. Trong quá trình rút quân, PLA sử dụng triệt để hỏa lực ngăn chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên các tuyến đường, phá hoại cầu cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác xã, làng mạc và khu dân cư.
Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai tuyên bố đã rút hoàn toàn quân đội nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa đôi bên còn kéo dài đến tận năm 1989 mới chấm dứt.
Các hành động chính trị quân sự quyết liệt của Liên xô, được thực hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự toàn diện cho cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những kết quả mong muốn về chính trị. Bộ máy lãnh đạo Bắc Kinh và quân đội PLA buộc phải từ bỏ hoàn toàn ý đồ của mình.
Cuộc diễn tập đã đạt được những mục tiêu quân sự cần thiết. Sức mạnh quân sự của Liên bang Xô viết đã chấm dứt những mưu toan nước lớn, những ý đồ trong vai trò “anh cả” và tham vọng điều khiển châu lục, buộc Trung Quốc nhìn lại ngay chính lực lượng quân sự của mình và những tham vọng của một “đại quốc”.
Việt Nam đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất nước và đường lối chính trị độc lập của mình trên trường thế giới.
Quân đội Liên bang Xô viết đã chứng minh được khả năng sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu cầu tác chiến hiện đại và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Dinh dưỡng - món ngon Cây thuốc Sản phụ khoa Nhi khoa Nam khoa Làm đẹp - giảm cân Phòng mạch online Ăn sạch sống khỏe
cdvhnghean.edu.vn - Ít người biết đến cuộc đụng độ đẫm máu giữa quân Trung Quốc và Liên Xô năm 1969. Đằng sau vụ giao tranh này là các mối quan hệ địa chính trị phức tạp.
Cuộc đụng độ vũ trang giữa Trung Quốc và Liên Xô trên đảo Damansky/Trân Bảo giữa sông Ussuri ở vùng biên giới vào tháng 3/1969 tuy không phát triển thành một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhưng đã có tác động mạnh đến quan hệ giữa 2 cường quốc này.
![]() |
Lính biên phòng Trung Quốc (áo đen) cãi cọ, xô xát với lính biên phòng Liên Xô vào năm 1969. Ảnh: History Answers. |
Hiện nay quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow dường như đang bước vào “kỷ nguyên vàng”. Nhưng trước cuộc đụng độ đẫm máu năm 1969 giữa Liên Xô (với thành viên lớn nhất là Nga) và Trung Quốc, hai bên cùng từng có quan hệ rất tốt đẹp.
Nhân tròn 50 năm cuộc đụng độ này, chúng ta cùng điểm lại một số trang báo Nga trong thời gian qua đề cập đến sự kiện lịch sử đặc biệt này.
Tờ Nezavisimaya Gazeta (của Nga) vào giữa tháng 12/2018 đăng một bài viết (bằng tiếng Nga) khá chi tiết nhìn lại sự kiện này, với dòng tít khá mạnh: “Damansky – một hòn đảo phủ đầy máu của các anh hùng chúng ta”.
Bài báo này, của tác giả Andrei Shavaev, mở đầu bằng phần thảo luận ngắn về nguồn gốc của căng thẳng biên giới Xô-Trung. Bài báo trích dẫn một cuốn sách của Trung Quốc xuất bản năm 1954 với các tấm bản đồ cho thấy lãnh thổ Trung Quốc bị “Sa hoàng chiếm trong khoảng giữa năm 1840 và thời gian diễn ra Thế chiến 1”. Theo bài báo này, cuộc “xâm lược bằng bản đồ” được tiếp nối với một loạt các vụ việc ngày càng nghiêm trọng trên biên giới.
Kế hoạch “Báo thù” và cuộc huyết chiến
Tác giả Shavaev giải thích rằng Nguyên soái Trung Quốc Lâm Bưu - tư lệnh quân khu Thẩm Dương, đã xây dựng kế hoạch tác chiến vào tháng 1/1969 với mật danh Báo thù.
Các nhân tố chính của kế hoạch này, theo bài báo của Nga, là “yếu tố bất ngờ” và “hỏa lực ồ ạt”. Vị trí chính xác của cuộc “mai phục” là khu vực biên giới có con sông Ussuri, tại điểm cách Vladivostok khoảng 200 trăm dặm về phía bắc nhưng vẫn nằm cách Khabarovsk hơn 100 trăm dặm về phía nam.
Mục tiêu của chiến dịch Trung Quốc này, vẫn theo bài báo nói trên, đơn giản là nhằm “loại bỏ” một nhóm lính biên phòng Nga. Tác giả Shavaev nhấn mạnh rằng kế hoạch của trận đánh đã được lãnh tụ Mao Trạch Đông thông qua.
![]() Tác giả Shavaev dẫn các nguồn tin y tế tiết lộ câu chuyện khủng khiếp hơn: “Các lính biên phòng bị hạ sát bằng lưỡi lê và những phát súng bắn ở cự ly gần. Áo khoác bằng da cừu, ủng và mũ dạ của họ đã được tháo cởi ra...” Theo bài báo này, 32 lính biên phòng Nga thiệt mạng vào ngày đó, và 200 lính Trung Quốc tử vong trong trận chiến diễn ra kế tiếp. Shavaev miêu tả: “Và băng trên sông Ussuri tan chảy vì đạn súng tiểu liên và đạn pháo. Tuyết trắng tháng 3 trên đảo Damansky chuyển sang màu đỏ của máu”. Liên Xô phản đòn mãnh liệt Đáng chú ý, quân đội Liên Xô đã huy động các dàn phóng pháo phản lực “Katyusha” Grad (Grad tiếng Nga có nghĩa là “mưa đá” - ND) để trút bão lửa lên quân đối phương. Shavaev kể: “Chỉ trong vài phút, đội hình quân Trung Quốc và khu vực hậu tuyến của họ đã biến thành một khối hỗn độn trộn đầy đất cát, kim loại và thi thể”. Hàng ngàn lính Trung Quốc được cho là đã bị tiêu diệt trong trận giao tranh thứ 2 này.
![]() Quân Trung Quốc và Liên Xô từng đụng độ ở biên giới cận kề Thế chiến 3 cdvhnghean.edu.vn - Trước đây, Trung Quốc không chỉ đụng độ quân sự với Ấn Độ ở vùng biên giới. Quân Trung Quốc còn giao chiến đẫm máu với lính Liên Xô ở Viễn Đông. Có một chi tiết đáng lưu ý là tác giả Shavaev đã trách cứ Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vì thiếu “tầm nhìn chiến lược” nên đã phần nào khiến cho những người lính biên phòng bị hy sinh. Tuy nhiên, bài báo này vẫn giải thích rằng nguyên nhân chính của cuộc đụng độ vẫn là do phía Bắc Kinh khởi xướng khi họ muốn “đoàn kết hơn nữa người dân dưới ngọn cờ của vị lãnh tụ vĩ đại”. Với vẻ ấm ức, tác giả Shavaev cho biết, rốt cuộc đảo Damansky đã được trao lại cho Trung Quốc vào năm 1991 và quân đội Trung Quốc đã duy trì một bảo tàng tại đó để tưởng niệm “chiến thắng” trước Liên Xô. Nguyên nhân sâu xa của xung đột quân sự Hôm 2/3 một tờ báo thuộc quân đội Nga cũng xuất bản một bài viết với giọng điệu và nội dung tương tự bài viết trên của Shavaev. Về trách nhiệm để nổ ra vụ xung đột quân sự, bài báo thứ 2 mở đầu bằng câu: “Trung Quốc tổ chức một cuộc khiêu khích vũ trang chống lại Liên Xô”. Bài báo kể thêm rằng một lính biên phòng Nga (hạ sĩ Pavel Akulov) dường như đã bị đối phương bắt và tra tấn đến chết. Ở đoạn cuối, tác giả Ilya Polansky than vãn rằng những người lính biên phòng trẻ tuổi của Liên Xô đã trở thành nạn nhân cho “trò chơi chính trị” của Trung Quốc khi ấy. Cả hai bài báo trên chắc chắn không có mục đích xới xáo tâm lý thù hằn giữa hai cường quốc ở khu vực Đông Á. Tuy nhiên chúng dường như cho ta thấy câu chuyện thực sự ẩn sau biến cố này: Trung Quốc có thể muốn “tặng” cho Liên Xô một đòn đau. Các chuyên gia về Trung Quốc đã từ lâu có khuynh hướng giải thích phản ứng của ông Mao Trạch Đông là để đáp trả lại việc Moscow can thiệp sâu vào Tiệp Khắc hơn 7 tháng trước đó (vào năm 1968). Theo cách giải thích này, ông Mao cần một bước đi mạnh mẽ để làm cho điện Kremlin tin rằng Trung Quốc sẵn sàng chiến đấu quyết liệt chống lại “chủ nghĩa xét lại Xô viết” và sẽ không dung thứ nếu Liên Xô làm điều can thiệp tương tự với Trung Quốc dưới thời của ông. Một số học giả Trung Quốc khác thì cho rằng cuộc đụng độ này có thể là tín hiệu Trung Quốc gửi cho Mỹ về việc sẵn lòng hợp tác trong khối chống Liên Xô. Việc xe tăng T-62 của Liên Xô được trưng bày nổi bật trong bảo tàng quân sự của Trung Quốc ở Bắc Kinh cho thấy nước Trung Hoa ngày nay vẫn có sự quan tâm đến sự kiện lịch sử này.../. |